Đã có rất nhiều người viết về ông Lê Đức Thọ đây là con người đã cống hiến trọn đời mình cho cách mạng, cho Tổ quốc và nhân dân như một huyền thoại , tấm gương sáng ngời của người cộng sản, người lãnh tụ tài ba, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong bài viết này hãy cùng Tieusu.net tìm hiểu kỹ hơn về tiểu sử và quá trình cách mạng đồng chí Lê Đức Thọ
Tiểu sử đồng chí Lê Đức Thọ
Đồng chí Lê Đức Thọ tên thật là Phan Đình Khải, sinh ngày 10 tháng 10 năm 1911 tại xã Địch Lễ, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, nay là xã Nam Vân, thành phố Nam Định. Tham gia cách mạng từ năm 1926, đến năm 1944, đồng chí là Ủy viên Trung ương Đảng; năm 1945 là Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng; Năm 1955, ông là Ủy viên Bộ Chính trị.
Quá trình cách mạng đồng chí Lê Đức Thọ
Ông hoạt động cách mạng từ năm 1926, tham gia phong trào bãi công và lễ truy điệu nhà chí sĩ yêu nước Phan Chu Trinh. Năm 1928, đồng chí công tác ở Trụ sở Học sinh, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, Tỉnh ủy, Tỉnh bộ Hội Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội Nam Định.
Tháng 10 năm 1929, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, làm Bí thư Chi bộ Học sinh và phụ trách phong trào công tác thanh niên, học sinh. Tháng 11-1930, đồng chí bị thực dân Pháp bắt và kết án với 10 năm khổ sai, đày ra Côn Đảo, được Chi bộ nhà tù Côn Đảo cử làm Bí thư Chi bộ kiêm Thường vụ Thành ủy.
Năm 1936-1939, ra tù, đồng chí được giao phụ trách công tác báo chí công khai của Đảng và công tác xây dựng cơ sở bí mật của Đảng tại Nam Định.
Từ năm 1939 đến năm 1944, đồng chí bị địch bắt và kết án 5 năm tù tại các nhà tù Hà Nội, Sơn La, Hòa Bình. Tháng 9-1944, ra tù, đồng chí được Trung ương Đảng phân công phụ trách An toàn khu, tổ chức và huấn luyện cán bộ của Trung ương.
Xem thêm: tiểu sử đồng chí Nguyễn Phú Trường
Tháng 10 năm 1944, đồng chí được cử làm Ủy viên Trung ương Đảng, trực tiếp phụ trách Xứ ủy Bắc Kỳ; Đồng chí dự cuộc họp mở rộng của Ban Thường vụ Trung ương Đảng vào đêm 9-3-1945 để ra chủ trương mới phát động cao trào cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa.
Tháng 8 năm 1945, tại Hội nghị Cán bộ toàn quốc ở Tân Trào, đồng chí được cử vào Thường vụ Trung ương Đảng. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông đã được phụ trách công tác tổ chức của Đảng. Tháng 12-1946, đồng chí dự Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã quyết định toàn quốc kháng chiến.
Năm 1948, thay mặt Trung ương Đảng, đồng chí tham gia các đoàn đại biểu của Đảng và Chính phủ vào Nam Bộ công tác. Năm 1949, đồng chí lên làm Phó Bí thư Xứ ủy Nam Bộ.
Năm 1951, tại Đại hội II của Đảng, đồng chí được bầu vào Trung ương Cục, làm Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam. Từ năm 1949 – 1954, đồng chí là Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Cục miền Nam.
Năm 1955, ông tập kết ra Bắc và làm Trưởng ban Thống nhất Trung ương. Cuối năm 1955, ông được bổ sung vào Bộ Chính trị phụ trách sửa chữa những sai sót trong cuộc vận động cải cách ruộng đất và tổ chức bộ máy.
Cuối năm 1956, đồng chí là Trưởng Ban Tổ chức Trung ương; từ tháng 11 năm 1956 đến năm 1961 kiêm Giám đốc Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương.
Năm 1960, tại Đại hội lần thứ III của Đảng, đồng chí đã được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Ban Bí thư và làm Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng.
Năm 1966, kiêm Hiệu trưởng tại Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương. Năm 1967, ông được bổ nhiệm vào Quân ủy Trung ương.
Sau Tết Mậu Thân năm 1968, ông được Bộ Chính trị điều vào Nam làm Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam. Tháng 5 năm 1968, ông được Bộ Chính trị gọi ra Bắc, giao nhiệm vụ phụ trách đấu tranh ngoại giao, làm cố vấn đặc biệt của Phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris để bàn việc tái lập hòa bình ở Việt Nam và trực tiếp đàm phán với đại diện Chính phủ Hoa Kỳ đàm phán riêng để giải quyết vấn đề Việt Nam một cách hòa bình. Sau Hiệp định Paris về Việt Nam (1973), đồng chí được cử làm Trưởng ban Trung ương Cục miền Nam.
Xem thêm: tiểu sử Nguyễn Phú Trọng
Trước thời cơ chiến lược mới mở ra, cuối tháng 3-1975, ông vào chiến trường trực tiếp cùng Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam lãnh đạo, chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước (30/4/1975), đồng chí được phân công làm Phó cơ quan đại diện Đảng, Chính quyền tại miền Nam.
Tháng 12 năm 1976, tại Đại hội Đảng lần thứ IV, đồng chí tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương.
Từ năm 1977 đến tháng 1 năm 1979, đồng chí được Bộ Chính trị phân công phụ trách công tác đặc biệt.
Năm 1980, đồng chí được cử làm Bí thư Thường trực, phụ trách công tác tổ chức; Tháng 10 năm 1980 kiêm Hiệu trưởng Trường Chính trị Đặc công.
Tại Đại hội Đảng lần thứ V (tháng 3-1982), đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và là Thường trực Ban Bí thư, phụ trách công tác tư tưởng và ngoại giao. Năm 1983, ông được bổ nhiệm làm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng của Đảng.
Năm 1986, đồng chí là Trưởng Tiểu ban Nhân sự Đại hội VI của Đảng và tại Đại hội (tháng 12 năm 1986), đồng chí được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đồng chí Lê Đức Thọ đã được trao tặng danh hiệu gì ?
Lê Đức Thọ được trao giải Nobel năm 1973 cùng với Henry Kissinger vì đã đàm phán thành công Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, nhưng ông từ chối nhận giải với lý do hòa bình chưa thành hiện thực tái sản xuất tại Việt Nam.
Tên của ông được đặt cho nhiều đường phố ở các tỉnh, thành phố ở Việt Nam. Quê ông cũng có đài tưởng niệm.
Có thể bạn quan tâm: vợ ông Nguyễn Thành Phong là ai
Lời kết
Trong suốt cuộc đời hoạt động vì sự nghiệp cách mạng của mình, đồng chí Lê Đức Thọ đã cống hiến hết tâm huyết, tài năng, trí tuệ cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc. Đây chính là nhà lãnh đạo tài năng của Đảng và cũng là tấm gương sáng để chúng ta noi theo.